Giao thông Việt Nam: Tư vấn pháp luật bồi thường thiệt hại trong trường hợp lái xe ô tô gây tai nạn giao thông?

1193

Trả lời:

1. Về trách nhiệm hình sự

Căn cứ Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội  thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn  giao thông;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Vì tình tiết bạn nêu không đầy đủ nên chúng tôi  không xác định được lỗi của người lái xe khi điều khiển ô tô tham gia giao thông, người lái xe đã có hành vi gì cũng như người đi đường có lỗi gì để xảy ra tai nạn nên không thể kết luận người lái xe có bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của điều luật trên hay không?

Nếu người lái xe có lỗi để xảy ra tai nạn như đi đường ngược chiều, vượt bên phải, vượt quá tốc độ cho phép…thì tùy vào biên bản hiện trường, lời khai của nhân chứng, kết quả giám định tỷ lệ thương tật, kết luận điều tra… người điều khiển xe ô tô sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 202 Bộ luật hình sự nêu trên.

2. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người bị tai nạn

Căn cứ Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như sau:

“1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác”

Theo hướng dẫn tại điểm đ, mục 2, phần III của Nghị quyết số 03/2006/NQ-H ĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như sau:

Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Ví dụ:A là chủ sở hữu xe ôtô đã giao xe ôtô đó cho B. B lái xe ôtô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:

– Nếu B chỉ được A thuê lái xe ôtô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ôtô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại.

– Nếu B được A giao xe ôtô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ôtô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ôtô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ôtô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.

Theo quy định tại Điều 618 Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra như sau:

“Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.

Theo các quy định nêu trên xe ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ. Việc bồi thường thiệt hại phụ thuộc rất nhiều vào lỗi, hành vi gây thiệt hại, hậu quả của hành vi, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này được xác định trên cơ sở loại hợp đồng đã ký kết giữa A và B. Nếu A và B chỉ có hợp đồng lao động, không có thỏa thuận nào khác thì A phải bồi thường thiệt hại.

Trong trường hợp hợp đồng giữa A và B có thỏa thuận về liên đới bồi thường thiệt hại hoặc A bồi thường trước sau đó yêu cầu B hoàn trả số tiền cho A. Khi đó việc bồi thường được thực hiện theo thỏa thuận được quy định trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không thỏa thuận cụ thể thì ông A bồi thường cho người bị tai nạn sau đó yêu cầu B phải hoàn trả khoản tiền đã bồi thường theo quy định tại điều 618 nêu trên.

Nếu A và B có hợp đồng thuê tài sản thì B là người trực tiếp chiểm hữu nguồn nguy hiểm cao độ và B phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì A và B không phải bồi thường thiệt hại.

Việc gia đình B đe dọa, gây sức ép đối với A là trái quy định của pháp luật. Nếu B đe dọa giết ông A, ông A có căn cứ cho rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện thì ông A có thể làm đơn tố cáo gửi đến công an quận huyện nơi xảy ra hành vi đe đọa để truy cứu trách nhiệm hình sự của B về tội đe dọa giết người theo quy định tại điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999. Nếu chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì B có thể bị xử phạt hành chính đối với hành vi “đe dọa”,  “gây rối”.

Điều 103 Bộ luật hình sự quy định về tội đe dọa giết người như sau:

“1. Người nào đe doạ giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe doạ lo sợ rằng việc đe doạ này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Đối với nhiều người;

b) Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

c) Đối với trẻ em;

d) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác.”

Công ty Luât Dragon (sưu tầm)